01 Trọng lực của giọt nóng chảy
Bất kỳ vật thể nào cũng sẽ có xu hướng bị võng xuống do trọng lực của chính nó. Trong hàn phẳng, trọng lực của giọt kim loại nóng chảy thúc đẩy quá trình chuyển đổi của giọt nóng chảy. Tuy nhiên, trong hàn đứng và hàn trên cao, trọng lực của giọt nóng chảy cản trở sự chuyển tiếp của giọt nóng chảy sang bể nóng chảy và trở thành vật cản.
02 Sức căng bề mặt
Giống như các chất lỏng khác, kim loại lỏng có sức căng bề mặt, tức là khi không có ngoại lực thì diện tích bề mặt của chất lỏng sẽ giảm thiểu và co lại thành hình tròn. Đối với kim loại lỏng, sức căng bề mặt làm cho kim loại nóng chảy có dạng hình cầu.
Sau khi kim loại điện cực nóng chảy, kim loại lỏng của nó không rơi ra ngay lập tức mà tạo thành một giọt hình cầu treo ở đầu điện cực dưới tác dụng của sức căng bề mặt. Khi điện cực tiếp tục nóng chảy, thể tích của giọt nóng chảy tiếp tục tăng cho đến khi lực tác dụng lên giọt nóng chảy vượt quá lực căng giữa bề mặt tiếp xúc của giọt nóng chảy và lõi hàn, giọt nóng chảy sẽ tách ra khỏi lõi hàn. và chuyển sang hồ nóng chảy. Do đó, sức căng bề mặt không có lợi cho sự chuyển tiếp của các giọt nóng chảy khi hàn phẳng.
Tuy nhiên, sức căng bề mặt có lợi cho việc truyền các giọt nóng chảy khi hàn ở các vị trí khác như hàn trên cao. Đầu tiên, kim loại nóng chảy treo ngược trên mối hàn dưới tác dụng của sức căng bề mặt và không dễ nhỏ giọt;
Thứ hai, khi giọt nóng chảy ở đầu điện cực tiếp xúc với kim loại bể nóng chảy, giọt nóng chảy sẽ bị kéo vào bể nóng chảy do tác động của sức căng bề mặt của bể nóng chảy.
Sức căng bề mặt càng lớn thì giọt nóng chảy ở đầu lõi hàn càng lớn. Kích thước của sức căng bề mặt có liên quan đến nhiều yếu tố. Ví dụ, đường kính của điện cực càng lớn thì sức căng bề mặt của giọt nóng chảy ở đầu điện cực càng lớn;
Nhiệt độ của kim loại lỏng càng cao thì sức căng bề mặt của nó càng nhỏ. Việc thêm khí oxy hóa (Ar-O2 Ar-CO2) vào khí bảo vệ có thể làm giảm đáng kể sức căng bề mặt của kim loại lỏng, tạo điều kiện cho sự hình thành các giọt nóng chảy hạt mịn chuyển sang bể nóng chảy.
03 Lực điện từ (lực co điện từ)
Hai mặt trái dấu hút nhau nên hai vật dẫn điện hút nhau. Lực hút hai vật dẫn gọi là lực điện từ. Hướng là từ ngoài vào trong. Độ lớn của lực điện từ tỷ lệ thuận với tích hai dòng điện, nghĩa là dòng điện đi qua dây dẫn càng lớn thì lực điện từ càng lớn.
Khi hàn, chúng ta có thể coi dây hàn tích điện và giọt chất lỏng ở đầu dây hàn được tạo thành từ nhiều dây dẫn mang dòng điện.
Như vậy, theo nguyên lý tác dụng điện từ nêu trên, không khó hiểu, dây hàn và giọt nước cũng chịu tác dụng của lực co hướng tâm từ mọi phía về tâm nên gọi là lực nén điện từ.
Lực nén điện từ làm cho mặt cắt của que hàn có xu hướng co lại. Lực nén điện từ không tác dụng lên phần rắn của que hàn nhưng lại tác động rất lớn đến phần kim loại lỏng ở đầu que hàn khiến giọt nước nhanh chóng hình thành.
Trên giọt kim loại hình cầu, lực điện từ tác dụng thẳng đứng lên bề mặt của nó. Nơi có mật độ dòng điện lớn nhất sẽ là phần có đường kính mỏng của giọt nước, cũng sẽ là nơi lực nén điện từ tác động mạnh nhất.
Do đó, khi cổ dần trở nên mỏng hơn, mật độ dòng điện tăng lên và lực nén điện từ cũng tăng lên, khiến giọt nóng chảy nhanh chóng tách ra khỏi đầu điện cực và chuyển sang bể nóng chảy. Điều này đảm bảo rằng giọt nóng chảy có thể chuyển sang trạng thái nóng chảy một cách trơn tru ở bất kỳ vị trí không gian nào.
Thiết bị hàn Xinfa có đặc tính chất lượng cao và giá thành thấp. Để biết chi tiết, vui lòng truy cập:Các nhà sản xuất hàn & cắt - Nhà máy và nhà cung cấp hàn & cắt Trung Quốc (xinfatools.com)
Trong hai trường hợp dòng hàn thấp và hàn thấp, ảnh hưởng của lực nén điện từ đến quá trình chuyển đổi giọt nước là khác nhau. Khi dòng hàn thấp thì lực điện từ nhỏ. Lúc này, kim loại lỏng ở đầu dây hàn chủ yếu chịu tác dụng của hai lực, một là sức căng bề mặt và hai là trọng lực.
Vì vậy, khi dây hàn tiếp tục nóng chảy thì thể tích giọt chất lỏng lơ lửng ở đầu dây hàn tiếp tục tăng lên. Khi thể tích tăng đến một mức nhất định và trọng lực của nó đủ lớn để thắng sức căng bề mặt, giọt nước sẽ đứt ra khỏi dây hàn và rơi xuống bể nóng chảy dưới tác dụng của trọng lực.
Trong trường hợp này, kích thước của giọt thường lớn. Khi một giọt lớn như vậy đi qua khe hở hồ quang, hồ quang thường bị đoản mạch, dẫn đến bắn tung tóe lớn và quá trình đốt hồ quang rất không ổn định. Khi dòng hàn lớn thì lực nén điện từ tương đối lớn.
Ngược lại, vai trò của trọng lực rất nhỏ. Giọt chất lỏng chủ yếu chuyển sang bể nóng chảy với các giọt nhỏ hơn dưới tác dụng của lực nén điện từ và tính định hướng rất mạnh. Bất kể vị trí hàn phẳng hay vị trí hàn trên cao, kim loại giọt luôn chuyển từ dây hàn sang vũng nóng chảy dọc theo trục hồ quang dưới tác dụng của lực nén từ trường.
Trong quá trình hàn, mật độ dòng điện trên điện cực hoặc dây nói chung tương đối lớn nên lực điện từ là lực chính thúc đẩy sự chuyển đổi của giọt nóng chảy trong quá trình hàn. Khi sử dụng thanh chắn khí, kích thước của giọt nóng chảy được kiểm soát bằng cách điều chỉnh mật độ dòng hàn, đây là phương tiện công nghệ chính.
Hàn là lực điện từ xung quanh hồ quang. Ngoài những tác dụng kể trên, nó còn có thể sinh ra một lực khác, đó là lực sinh ra do cường độ từ trường phân bố không đều.
Do mật độ dòng điện của kim loại điện cực lớn hơn mật độ của vật hàn nên cường độ từ trường sinh ra trên điện cực lớn hơn cường độ từ trường sinh ra trên vật hàn nên lực trường được sinh ra dọc theo phương dọc của điện cực. .
Hướng hoạt động của nó là từ nơi có cường độ từ trường cao (điện cực) đến nơi có cường độ từ trường thấp (mối hàn), nên dù vị trí không gian của mối hàn như thế nào cũng luôn thuận lợi cho quá trình chuyển tiếp của nóng chảy. giọt nước vào hồ nóng chảy.
04 Áp lực cực (lực tại chỗ)
Các hạt mang điện trong hồ quang hàn chủ yếu là các electron và ion dương. Do tác dụng của điện trường, dòng electron di chuyển về phía cực dương và các ion dương di chuyển về phía cực âm. Các hạt tích điện này va chạm với các điểm sáng ở hai cực và được tạo ra.
Khi DC được kết nối dương, áp suất của các ion dương sẽ cản trở quá trình chuyển đổi của giọt nóng chảy. Khi DC được kết nối ngược, áp suất của các electron cản trở sự chuyển đổi của giọt nóng chảy. Vì khối lượng của ion dương lớn hơn khối lượng của electron nên áp suất của dòng ion dương lớn hơn áp suất của dòng electron.
Do đó, rất dễ tạo ra sự chuyển đổi hạt mịn khi kết nối ngược được kết nối, nhưng không dễ dàng khi kết nối dương được kết nối. Điều này là do áp lực cực khác nhau.
05 Lực thổi khí (lực dòng plasma)
Trong hàn hồ quang thủ công, quá trình nóng chảy của lớp phủ điện cực chậm hơn một chút so với quá trình nóng chảy của lõi hàn, tạo thành một phần nhỏ ống bọc hình "kèn Trumpet" chưa nóng chảy ở phần cuối của lớp phủ.
Có một lượng lớn khí sinh ra do quá trình phân hủy của khí hóa lớp phủ và khí CO sinh ra do quá trình oxy hóa các nguyên tố cacbon trong lõi hàn trong vỏ. Các khí này nở ra nhanh chóng do bị nung nóng đến nhiệt độ cao và lao theo hướng của lớp vỏ không nóng chảy theo một luồng khí thẳng (thẳng) và ổn định, thổi các giọt nóng chảy vào bể nóng chảy. Bất kể vị trí không gian của mối hàn, luồng không khí này sẽ có lợi cho sự chuyển tiếp của kim loại nóng chảy.
Thời gian đăng: 20-08-2024